Vụ việc của chị Nguyễn Thị Trâm Anh (Cao Bằng):
Năm 1998 UBND huyện cấp sổ đỏ cho hộ gia đình gồm tôi, anh trai tên T và H, chị gái tên H và mẹ tôi tên C. Giấy đứng tên hộ bà C ký 3/9/1998. Năm 2003 tôi xây nhà trên đất của hộ gia đình và mọi người đều không phản đối. Năm 2006 tôi tách hộ khẩu. Năm 2007,2008,2009 mẹ tôi làm hợp đồng tặng cho đất cho anh T, chị L, anh H, chị H nhưng dấu không cho tôi biết và hợp đồng được chủ tịch xã chứng thực. Sau đó UBND huyện tiến hành cấp đổi từ hộ bà C sang tên các cá nhân của anh T, chị L, anh H, chị H và mẹ tôi là bà C vào năm 2008, 2009, 2013. Việc chứng thực và cấp đổi này đến tháng 5/2017 tôi mới biết.
Tháng 1/2018 tôi khởi kiện việc chứng thực trái pháp luật và yêu cầu thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của anh T, chị L, anh H, chị H và mẹ tôi được cấp vào năm 2008, 2009, 2013. Tuy nhiên, Tòa án chỉ chấp nhận yêu cầu khởi kiện việc chứng thực hợp đồng tặng cho đất và bác toàn bộ yêu cầu sau: (1) Xác định việc UBND huyện đã cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho anh T, chị L, anh H, chị H và mẹ tôi là bà C vào năm 2008, 2009, 2013 là sai; (2) Xác định việc chủ tịch UBND huyện đã giải quyết khiếu nại đất đai trái pháp luật; (3) Hoàn trả bản gốc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên hộ bà C năm 1998 đã thu trong quá trình tiến hành cấp đổi cho tôi để tôi đem về cùng 3 người trong hộ 1998 tiến hành chia đất.
Sau đó, UBND cấp huyện ra quyết định thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với nội dung thực hiện theo bản án tuyên hợp đồng vô hiệu của Tòa án cấp sơ thẩm trong khi bản án không hề quyết định thu hồi các giấy chứng nhận.
Tôi muốn hỏi luật sư, UBND huyện căn cứ thu hồi giấy chứng nhận như vậy có đúng không? Tôi có thể kháng cáo lên Tòa phúc thẩm để được giải quyết đủ các yêu cầu trên hay không?
Luật sư tư vấn pháp luật đất đai:
- Quyết định thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của chủ tịch huyện đối với thửa đất được cấp giấy chứng nhận của anh T, chị L, anh H, chị H và bà C.
Một trong các căn cứ để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với cá nhân đang sử dụng đất có giấy tờ về quyền sử dụng đất được quy định tại điều 100 Luật Đất đai 2013 là: Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, “tặng cho quyền sử dụng đất” hoặc tài sản gắn liền với đất, giấy tờ giao nhà tình nghĩa, nhà tình thương gắn liền với đất. Tòa án cấp sơ thẩm đã ra bản án tuyên Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất là chứng thực trái pháp luật. Vì vậy, anh T, chị L, anh H, chị H không có đủ điều kiện để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Căn cứ điểm d Khoản 2, Khoản 3 Điều 106 Luật Đất đai 2013, một trong các trường hợp Nhà nước thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp đó là “không đủ điều kiện được cấp Giấy chứng nhận” . Việc thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp đối với trường hợp quy định tại điểm d khoản 2 Điều này do cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất quy định tại Điều 105 của Luật này quyết định sau khi đã có kết luận của cơ quan thanh tra cùng cấp, văn bản có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về giải quyết tranh chấp đất đai.”
Do đó, Chủ tịch UBND cấp huyện căn cứ vào bản án tuyên xử vụ chứng thực hợp đồng để thu hồi giấy chứng nhận là hoàn toàn đúng với quy định pháp luật.
- Kháng cáo vụ án hành chính lên Tòa án cấp phúc thẩm
Thông thường trong thời hạn kháng 15 ngày kể từ ngày tuyên án đối với bản án hành chính cấp sơ thẩm, đương sự có quyền kháng cáo. Tuy nhiên, chúng tôi xét thấy trường hợp này không nên kháng cáo mà cần khởi kiện vụ án hành chính độc lập.
Thứ nhất, Tòa án cấp sơ thẩm bác đơn khởi kiện hoàn toàn có căn cứ pháp luật. Theo Khoản 1 Điều 32 Luật tố tụng hành chính thì Tòa án cấp huyện không có thẩm quyền giải quyết “quyết định hành chính, hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện”. Thẩm quyền thụ lý giải quyết khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện thuộc về Tòa án cấp tỉnh trên cùng địa giới hành chính”.
Thứ hai, trường hợp này đương sự cần khởi kiện tới Tòa án nhân dân cấp tỉnh để được giải quyết việc khởi kiện quyết định giải quyết khiếu nại của Chủ tịch UBND cấp huyện và việc cơ quan có thẩm quyền Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên là sai.
Thứ ba, không cần tiếp tục khởi kiện để đòi lại giấy chứng nhận gốc vì theo quy định của pháp luật đất đai, giấy chứng nhận gốc đã bị cơ quan có thẩm quyền thu hồi nên không còn giá trị pháp lý. Văn phòng đăng ký đất đai có trách nhiệm trình cơ quan có thẩm quyền cấp lại Giấy chứng nhận cho người sử dụng đất theo đúng quy định của pháp luật (Khoản 8 Điều 87 Nghị định 43/2014).
Trên đây là ý kiến tư vấn của Luật sư tư vấn pháp luật đất đai, Hãng luật TGS. Chúng tôi sẽ tiếp tục hỗ trợ và nỗ lực giải đáp, giúp đỡ Quý khách trong mọi lĩnh vực.
Trân trọng cảm ơn!
Luật sư – Nguyễn Văn Tuấn – Giám Đốc Công ty Luật TGS
Ông là một luật sư giỏi có nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực đất đai. Luật sư đã tham gia tranh tụng nhiều vụ án tranh chấp đất đai, vụ án hình sự, kinh tế, thương mại,.. trên toàn quốc.
Luật sư Nguyễn Đức Hùng – Phó Giám Đốc Công ty Luật TGS
Thạc sĩ, Luật sư Nguyễn Đức Hùng là một luật sư giỏi, đã từng công tác tại Công ty Luật TNHH NHB và nhiều công ty luật có thương hiệu khác, với hơn 10 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực Đất đai, hình sự, dân sự..
Luật sư Nguyễn Đức Hùng – Luật sư Công ty Luật TGS
Luật sư Đức Hùng từng công tác tại nhiều tổ chức hành nghề luật sư uy tín, có nhiều năm kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực tranh tụng hình sự, đất đai, tranh chấp dân sự, hôn nhân gia đình.
Luật sư Hà Huy Sơn – Luật sư Công ty Luật TGS
Là một luật sư giỏi trong lĩnh vực hình sự. Với hơn 10 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực Hình Sự, luật sư Hà Huy Sơn đã gây dựng được cho mình thương hiệu riêng và sự uy tín vững chắc đối với khách hàng.