Chế độ án treo
Pháp luật hình sự là một trong những công cụ sắc bén, hữu hiệu nhằm đấu tranh phòng ngừa tội phạm. Các tội phạm rất phong phú và đa dạng, khác nhau về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội. Để đấu tranh có hiệu quả với các tội phạm, đảm bảo được các nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự, cá thể hóa hình phạt đối với người phạm tội, Bộ luật hình sự quy định một hệ thống hình phạt rất phong phú, đa dạng và có tính phân hóa cao để áp dụng đối với từng tội phạm, từng người phạm tội. Mục đích của việc áp dụng hình phạt đối với người phạm tội là giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới, có nghĩa là hoàn trả cho xã hội con người đã trở nên vô hại, không còn nguy cơ tái phạm. Tuy nhiên, để đạt được mục đích đó, ngoài việc áp dụng hình phạt – biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất – trong một số trường hợp nhất định sẽ có hiệu quả cao hơn nếu áp dụng biện pháp khác, không cần bắt người phạm tội phải chấp hành hình phạt. Một biện pháp được áp dụng nhiều trong thực tiễn là án treo. Phạt tù cho hưởng án treo là một chế định pháp lý độc lập, thể hiện quan điểm của Đảng, Nhà nước trong việc áp dụng pháp luật hình sự là nghiêm minh nhưng nhân đạo, nghiêm trị nhưng khoan hồng, tính ưu việt của chế định án treo chính là ở sự kết hợp đó.
Phạt tù cho hưởng án treo là một chế định pháp lý độc lập, một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện trong luật hình sự Việt Nam. Chế định này thể hiện quan điểm của Đảng, Nhà nước trong viện áp dụng pháp luật hình sự là nghiêm minh nhưng nhân đạo, nghiêm trị nhưng khoan hồng, tính ưu việt của chế định án treo chính là ở sự kết hợp đó. Mặt khác, án treo còn làm tăng cường trách nhiệm các cơ quan Nhà nước và của cả gia đình người phạm tội trong việc theo dõi, quản lý giáo dục họ để trở thành những công dân tốt
“Án treo là một chế định pháp lý đặc biệt hay còn là biện pháp miện chấp hành hình phạt tù có điều kiện do Toà án quyết định trên cơ sở căn cứ vào hình phạt tù đã tuyên đối với người phạm tội không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự thì Toà án cho người đó được hưởng án treo, không phải chấp hành hình phạt tại trại giam đồng thời ấn định thời gian thử thách từ một đến năm năm”.
Án treo không phải là hình phạt mà là một biện pháp không bắt người phạm tội phải chấp hành hình phạt tù mặc dù họ đã bị xử phạt tù. Đồng thời cũng quy định người được hưởng án treo mà phạm tội mới trong thời gian thử thách, thì Tòa án quyết định buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới.
Đặc điểm cơ bản của án treo: Thứ nhất, án treo là biện pháp giáo dục trong trường hợp không cần cách ly người phạm tội khỏi cộng đồng khi bị xử phạt tù tương đối nhẹ. Thứ hai, án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Điều đó có nghĩa là người được hưởng án treo là người phạm tội phải chịu hình phạt tù có thời hạn nhưng được miễn việc chấp hành hình phạt tù tại trại giam. Thứ ba, người được hưởng án treo phải tự cải tạo, dưới sự giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức hoặc chính quyền địa phương trong một thời gian thử thách nhất định do Tòa án ấn định.
Quy định của pháp luật hình sự về áp dụng án treo
“Điều 65. Án treo
Khi xử phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ 01 năm đến 05 năm và thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật thi hành án hình sự.”
Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/05/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng điều 65 của Bộ luật hình sự về án treo hướng dẫn như sau:
Điều kiện cho người bị kết án phạt tù được hưởng án treo
Người bị xử phạt tù có thể được xem xét cho hưởng án treo khi có đủ các điều kiện sau đây:
– Bị xử phạt tù không quá 03 năm.
– Có nhân thân tốt.
Được coi là có nhân thân tốt nếu ngoài lần phạm tội này, người phạm tội luôn chấp hành đúng chính sách, pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú, nơi làm việc.
Đối với người đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích, người bị kết án nhưng đã được xóa án tích, người đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị xử lý kỷ luật mà thời gian được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 06 tháng, nếu xét thấy tính chất, mức độ của tội phạm mới được thực hiện thuộc trường hợp ít nghiêm trọng hoặc người phạm tội là đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án và có đủ các điều kiện khác thì cũng có thể cho hưởng án treo.
– Có từ 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên, trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
Trường hợp có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì số tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phải nhiều hơn số tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự từ 02 tình tiết trở lên, trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
– Có nơi cư trú rõ ràng hoặc nơi làm việc ổn định để cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giám sát, giáo dục.
Nơi cư trú rõ ràng là nơi tạm trú hoặc thường trú có địa chỉ được xác định cụ thể theo quy định của Luật Cư trú mà người được hưởng án treo về cư trú, sinh sống thường xuyên sau khi được hưởng án treo.
Nơi làm việc ổn định là nơi người phạm tội làm việc có thời hạn từ 01 năm trở lên theo hợp đồng lao động hoặc theo quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
– Xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù nếu người phạm tội có khả năng tự cải tạo và việc cho họ hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội; không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
Kết luận
Chế định án treo là một trong những chế định đặc biệt, nó là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện được Tòa án áp dụng đối với người bị kết án phạt tù không quá ba năm tù, căn cứ vào nhân thân người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần thiết phải bắt người đó chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách của án treo từ một năm đến năm năm. Trong thời gian thử thách Tòa án giao người được hưởng án treo cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó cư trú để giám sát, giáo dục người đó. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giáo dục người đó. Người được hưởng án treo có thể phải chịu hình phạt bổ sung theo quy định của pháp luật. Khi người được hưởng án treo đã chấp hành được một phần hai thời gian thử thách và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giám sát, giáo dục, Tòa án có thể rút ngắn thời gian thử thách. Đối với người được hưởng án treo mà phạm tội mới trong thời gian thử thách thì Tòa án quyết định buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định.
Nếu có gì thắc mắc hay chưa hiểu rõ về luật. Bạn hãy vui lòng liên hệ Tổng đài 1900.8698 để được các luật sư Tgs tư vấn pháp luật trực tuyến 24/7 Hoặc truy cập Website: https://tgslaw.vn