Câu hỏi:
Ngoại tình có phải là vi phạm pháp luật không? Như nào thì bị coi là ngoại tình? Nếu vi phạm thì xử lý đối với hành vi ngoại tình như thế nào?
>>>Xem thêm: Luật sư tư vấn pháp luật hình sự
Trả lời:
Khoản 1, Điều 2, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 khẳng định nguyên tắc hôn nhân ở Việt Nam là “hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng”. Nói cách khác, những hành vi xâm phạm đến nguyên tắc “một vợ – một chồng” là vi phạm pháp luật.
Trên thực tế, pháp luật không có khái niệm về ngoại tình. Tuy nhiên, luật hôn nhân gia đình và các luật liên quan có chỉ ra khái niệm về thuật ngữ “một vợ, một chồng”. Nghĩa là hôn nhân là quan hệ pháp lý hoàn toàn tự nguyện giữa vợ và chồng bao gồm một nam và một nữ. Pháp luật cũng không thừa nhận hôn nhân đồng giới. Như vậy, có thể thấy hành vi “ngoại tình” chỉ khi đã có quan hệ hôn nhân (đã kết hôn) mà còn kết hôn hay chung sống như vợ chồng với người khác.
Hành vi vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng bị xử lý về cả mặt hành chính cũng như mặt hình sự nếu đáp ứng đủ các điều kiện. Cụ thể sau đây:
1. Xử lý vi phạm hành chính
Thông thường, hành vi vi phạm quy định về một vợ, một chồng ở mức độ ít nghiêm trọng, lần đầu, chưa tái phạm thì sẽ bị xử lý hành chính. Theo các điểm a, b, c, của khoản 1, điều 48, Nghị định 110/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. Theo đó, xử lý từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng với các hành vi sau đây:
“a) Đang có vợ hoặc đang có chồng mà kết hôn với người khác, chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà kết hôn với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ;
b) Đang có vợ hoặc đang có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác;
c) Chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ;”
Như vậy, kể cả người đã có vợ, có chồng mà ngoại tình hoặc người chưa có vợ, có chồng mà ngoại tình với người đã có vợ, có chồng đều bị xử lý vi phạm hành chính với mức phạt nêu trên.
2. Truy cứu trách nhiệm hình sự
Khi hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng ở mức nghiêm trọng hơn, có các dấu hiệu như:
– Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn;
– Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm và thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của cấu thành tội phạm thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điều 182, Bộ luật hình sự năm 2015 về “Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng”. Theo đó, ở khung cơ bản của tội phạm, hành vi sẽ bị xử phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 1 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 1 năm. Tại khung tăng nặng, tội phạm còn có thể bị phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm.
⇒ Kết luận, hành vi ngoại tình được định nghĩa theo pháp luật là hành vi vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng. Người thực hiện hành vi này thông thường sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính. Ở mức độ nghiêm trọng hơn, hành vi cấu thành đầy đủ các yếu tố của cấu thành tội phạm thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt tương ứng.
Luật sư – Nguyễn Văn Tuấn – Giám Đốc Công ty Luật TGS
Ông là một luật sư giỏi có nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực đất đai. Luật sư đã tham gia tranh tụng nhiều vụ án tranh chấp đất đai, vụ án hình sự, kinh tế, thương mại,.. trên toàn quốc.
Luật sư Nguyễn Đức Hùng – Phó Giám Đốc Công ty Luật TGS
Thạc sĩ, Luật sư Nguyễn Đức Hùng là một luật sư giỏi, đã từng công tác tại Công ty Luật TNHH NHB và nhiều công ty luật có thương hiệu khác, với hơn 10 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực Đất đai, hình sự, dân sự..
Luật sư Nguyễn Đức Hùng – Luật sư Công ty Luật TGS
Luật sư Đức Hùng từng công tác tại nhiều tổ chức hành nghề luật sư uy tín, có nhiều năm kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực tranh tụng hình sự, đất đai, tranh chấp dân sự, hôn nhân gia đình.
Luật sư Hà Huy Sơn – Luật sư Công ty Luật TGS
Là một luật sư giỏi trong lĩnh vực hình sự. Với hơn 10 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực Hình Sự, luật sư Hà Huy Sơn đã gây dựng được cho mình thương hiệu riêng và sự uy tín vững chắc đối với khách hàng.