Vụ án hình sự “Buôn bán trái phép chất ma túy” sẽ được TAND TP Uông Bí (Quảng Ninh) đã được đưa ra xét xử sơ thẩm công khai sáng ngày 02/10/2017 theo quyết định số 80/2017/QĐXX-HS ngày 19/9/2017 do Thẩm phán Nguyễn Văn Bắc ký. Do bị can Đỗ Văn Trung là người chưa thành niên nên dư luận đặc biệt quan tâm theo dõi vụ án này, nhất là sau khi một số cơ quan báo chí đăng nhiều tin, bài cho biết: Trong quá trình bắt giữ và điều tra vụ “Mua bán trái phép chất ma túy” đối với bị can Đỗ Văn Trung, cơ quan tiến hành tố tụng đã có những vi phạm nghiêm trọng đến trình tự thủ tục tố tụng hình sự, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Vụ việc cụ thể như sau:
Ngày 19/01/2017, Công an thành phố Uông Bí cùng với Công an phường Nam Khê, TP. Uông Bí tiến hành kiểm tra hành chính Đỗ Văn Trung (sinh năm 2000) tại phường Thanh Sơn, TP. Uông Bí phát hiện một vỏ bao thuốc lá, bên trong có chứa chất bột màu trắng rơi ở gần vị trí Trung đang đứng nên đã đưa Trung về Công an phường Thanh Sơn để làm việc. Đồng thời, Công an đã tiến hành khám xét khẩn cấp tại nhà cháu Trung. Ngày 20/01/2017, Cơ quan điều tra ra lệnh bắt khẩn cấp, Quyết định tạm giữ hình sự đối với Đỗ Văn Trung.
Ngày 21/01/2017, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh đã kết luận giám định các mẫu vật trên không phải chất ma túy hay tiền chất để sản xuất ma túy. Tuy nhiên, ngày 25/01/2017, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Uông Bí vẫn ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can và truy tố đối với Đỗ Văn Trung.
Đỗ Văn Trung bị bắt khẩn cấp, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/01/2017 nhưng cho đến đến ngày 24/04/2017, bố mẹ của Trung mới được Cơ quan cảnh sát điều tra thông báo và mời lên làm việc để giám hộ cho con mình. Kể từ thời điểm này, Trung đã cung cấp những lời khai khác hoàn toàn so với những lời khai trước, đồng thời tố cáo đã bị điều tra viên đánh, ép cung và “hướng dẫn khai”.
Ngày 16/06/2017, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP. Uông bí ra Bản kết luận điều tra số 97/KLĐT và chuyển hồ sơ sang Viện kiểm sát nhân dân TP. Uông Bí đề nghị truy tố. Ngày 07/07/2017, nhận thấy không có căn cứ để truy tố, Viện kiểm sát đã ra Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Trong thời gian điều tra bổ sung, việc hỏi cung, đối chất bị can đều có sự tham gia của người bào chữa và người giám hộ. Cháu Trung khai báo trung thực và nhất quán thể hiện mình không có tội. Đặc biệt, khi cơ quan tố tụng triệu tập lấy lời khai những đối tượng có liên quan thì những đối tượng này đều vắng mặt, hoặc khai báo không nhớ gì.
Mặc dù vậy, ngày 11/08/2017, Cơ quan Cảnh sát điều tra vẫn ra Bản kết luận điều tra số 128/KLĐT và đề nghị truy tố Đỗ Văn Trung theo Điều 194, Bộ luật Hình sự 1999.
Ngày 15/08/2017, Luật sư Lê Đình Việt tiến hành sao chụp hồ sơ vụ án tại Viện kiểm sát nhân dân TP. Uông Bí, nhưng Kiểm sát viên Lê Thị Kiều Oanh không cung cấp 210 trên tổng số 515 bút lục trong hồ sơ (Biên bản làm việc ngày 15/08/2017). Ngày 18/08/2017, Viện kiểm sát nhân dân TP. Uông Bí vẫn quyết định truy tố cháu Trung theo Khoản 1, Điều 194, BLHS 1999.
Nhận thấy vụ án Đỗ Văn Trung có rất nhiều sai phạm về tố tụng, như: áp dụng sai biện pháp ngăn chặn; có dấu hiệu tạo dựng chứng cứ giả; sử dụng tài liệu vi phạm tố tụng để làm căn cứ cứ buộc tội; có dấu hiệu ép cung Trung, ngày 17 tháng 7 năm 2017, hai luật sư của bị cáo Đỗ Văn Trung là Nguyễn Văn Tuấn (Công ty TNHH Luật TGS) và Lê Đình Việt (Công ty TNHH Luật Minh Tín) đã gửi đơn khiếu nại lên Thủ trưởng cơ quan điều tra công an thành phố Uống Bí, công an tỉnh Quảng Ninh, khiếu nại Ông Nguyễn Tiến Mạnh về hành vi xâm phạm quyền của người bào chữa và việc ban hành Lệnh tạm giam số 85 ngày 11/07/2017 là trái với quy định pháp luật hình sự trong vụ án “Mua bán trái phép chất ma túy” của bị can Đỗ Văn Trung. Yêu cầu Ông Nguyễn Tiến Mạnh chấm dứt tất cả các hành vi đang xâm phạm quyền của người bào chữa trong vụ án “Mua bán trái phép chất ma túy” của bị can Đỗ Văn Trung, mà cụ thể là hành vi không cung cấp Lệnh tạm giam số 85; hủy bỏ Lệnh tạm giam số 85 ngày 11/07/2017 và yêu cầu Cơ quan cảnh sát điều tra đảm bảo quyền của người bào chữa trong quá trình giải quyết vụ án; yêu cầu làm rõ lý do, động cơ và xử lý nghiêm hành vi trên của Ông Nguyễn Tiến Mạnh.
Đồng thời, hai luật sư Tuấn và luật sư Việt đã gửi đơn khiếu nại đối với bà Lê Thị Kiều Oanh về hành vi không cung cấp Quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung cho người bào chữa được biết trong vụ án “Mua bán trái phép chất ma túy” của bị can Đỗ Văn Trung đến Viện trưởng Viện kiểm sát Nhân dân Tp. Uông Bí, Viện trưởng Viện kiểm sát Nhân dân tỉnh Quảng Ninh, Viện trưởng Viện kiểm sát Nhân dân cấp cao tại Hà Nội và Viện trưởng Viện kiểm sát Nhân dân tối cao với những yêu cầu: Yêu cầu bà Lê Thị Kiều Oanh chấm dứt tất cả các hành vi đang xâm phạm đến quyền của người bào chữa mà cụ thể là không cung cấp Quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung vị án, đồng thời làm rõ lý do, động cơ và xử lý nghiêm hành vi của bà Lê Thị Kiều Oanh trong vụ án trên.
Cụ thể những việc làm trái pháp luật như sau:
Trong vụ án Đỗ Văn Trung (sinh ngày 10/4/2000) bị khởi tố để điều tra về tội mua bán trái phép chất ma túy Cơ quan CSĐT Công an TP. Uông Bí và VKS nhân dân TP. Uông Bí đã có nhiều quyết định, hành vi vi phạm nghiêm trọng Pháp luật Tố tụng hình sự, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Cụ thể:
Thứ nhất: Còng tay người bị kiểm tra hành chính
Quá trình kiểm tra hành chính đối với Đỗ Văn Trung, đoàn công tác do Công an TP. Uông Bí và Công an phường Nam Khê đã còng tay cháu Trung. Đây là hành vi trái với quy định tại Điều 33 Pháp lệnh Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nỗ và công cụ hỗ trợ ngày 30/6/2011:
“Điều 33. Sử dụng công cụ hỗ trợ
1. Người được giao công cụ hỗ trợ khi thi hành công vụ được sử dụng trong các trường hợp sau đây:
a) Các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 22 của Pháp lệnh này;
b) Ngăn chặn người đang có hành vi đe doạ trực tiếp đến tính mạng, sức khoẻ của người khác,
c) Bắt giữ người theo quy định của pháp luật;
d) Thực hiện phòng vệ chính đáng theo quy định của pháp luật.
2. Bộ trưởng Bộ Công an quy định việc sử dụng đối với từng loại công cụ hỗ trợ.”
Tuy nhiên, tại Kết luận về việc xác minh nội dung tố cáo số 02/KL ngày 22/7/2017 Cơ quan CSĐT Công an TP. Uông Bí vẫn không thừa nhận hành vi nêu trên mặc dù có hình ảnh chứng minh.
Thứ hai: Vi phạm các quy định trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam người chưa thành niên
Trung bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/01/2017 để điều tra về hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Tuy nhiên, đến ngày 24/4/2017 bố mẹ Trung mới nhận được thông báo của Cơ quan CSĐT Công an Uông Bí về việc bắt giữ và tạm giam bị can. Điều 85 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định:
“Điều 85. Thông báo về việc bắt
Người ra lệnh bắt, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo ngay cho gia đình người đã bị bắt, chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó cư trú hoặc làm việc biết. Nếu thông báo cản trở việc điều tra thì sau khi cản trở đó không còn nữa, người ra lệnh bắt, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo ngay.”
Về thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên, khoản 3, Điều 303, Bộ luật Tố tụng hình sự quy định việc Cơ quan ra lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam người chưa thành niên phải thông báo cho gia đình, người đại diện hợp pháp của họ biết ngay sau khi bắt, tạm giữ, tạm giam.
“Điều 303. Bắt, tạm giữ, tạm giam
1. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu có đủ căn cứ quy định tại các điều 80, 81, 82, 86, 88 và 120 của Bộ luật này, nhưng chỉ trong những trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
2. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu có đủ căn cứ quy định tại các điều 80, 81, 82, 86, 88 và 120 của Bộ luật này, nhưng chỉ trong những trường hợp phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
3. Cơ quan ra lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam người chưa thành niên phải thông báo cho gia đình, người đại diện hợp pháp của họ biết ngay sau khi bắt, tạm giữ, tạm giam.”
Hơn thế nữa, trong quá trình tạm giam để điều tra, Công an TP. Uông Bí đã giam cháu Trung (sinh năm 2000) cùng buồng giam với Trần Mạnh Dũng (sinh năm 1973) bị truy tố về tội tàng trữ trái phép chất ma túy trong thời gian từ ngày 14/4/2017 đến ngày 18/5/2017. Việc giam giữ như vậy là trái với quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 15 Quy chế về tạm giữ, tạm giam (Ban hành kèm theo Nghị định số 89/1998/NĐ-CP ngày 07/11/1998 của Chính phủ).
“1. Việc giam, giữ bố trí theo khu vực và phân loại như sau:
– Phụ nữ;
– Người chưa thành niên;
– Người nước ngoài;
– Người có bệnh truyền nhiễm nguy hiểm;
– Loại côn đồ hung hãn, giết người, cướp tài sản .-, tái phạm nguy hiểm;
– Người phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia;
– Người bị Toà án tuyên phạt tử hình;
– Người có án phạt tù chờ chuyển đi Trại giam.
2. Không được giam, giữ chung buồng những người trong cùng một vụ án đang điều tra, truy tố, xét xử. Việc giam, giữ riêng từng người do cơ quan đang thụ lý vụ án quyết định. Người nước ngoài bị tạm giữ, tạm giam có thể được giam, giữ ở buồng riêng trong Nhà tạm giữ, Trại tạm giam.”
Khoản 4, khoản 5 Điều 8 Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT-VKSTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH Hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ Luật Tố tụng hình sự đối với người tham gia tố tụng là người chưa thành niên:
“Điều 8. Áp dụng các biện pháp ngăn chặn
Khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn như bắt, tạm giữ, tạm giam đối với người chưa thành niên phạm tội, cơ quan tiến hành tố tụng phải xác định chính xác độ tuổi của họ nhằm áp dụng đúng các quy định tại Điều 303 BLTTHS. Đối với các trường hợp bị bắt quả tang, bắt khẩn cấp thì sau khi bắt, cơ quan tiến hành tố tụng phải khẩn trương xác minh độ tuổi của họ để có quyết định xử lý phù hợp. Trước khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn được quy định tại Điều 303 BLTTHS, cơ quan tiến hành tố tụng cần xem xét, cân nhắc áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác quy định tại các Điều 91, 92 và 93 BLTTHS.
Đối với người chưa thành niên đã áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam, cơ quan tiến hành tố tụng phải thường xuyên theo dõi, kiểm tra và khi xét thấy không còn cần thiết áp dụng biện pháp ngăn chặn đó thì kịp thời hủy bỏ hoặc thay thế bằng các biện pháp ngăn chặn khác không hạn chế tự do đối với họ.
Khi bắt giữ người chưa thành niên phạm tội, trong trường hợp cần thiết phải sử dụng vũ lực thì việc sử dụng vũ lực phải theo đúng quy định của pháp luật và chỉ ở mức độ đủ để kiểm soát người chưa thành niên phạm tội.
Khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam đối với người chưa thành niên phạm tội, cơ quan tiến hành tố tụng cần hạn chế việc gia hạn thời hạn tạm giữ, tạm giam.
Người chưa thành niên phải được tạm giữ, tạm giam riêng, không được giam giữ chung với người đã thành niên. Khi xét thấy người chưa thành niên phạm tội có biểu hiện hoang mang, lo lắng có thể manh động dẫn đến hành vi tiêu cực thì cơ quan điều tra yêu cầu cơ sở giam giữ áp dụng các biện pháp phù hợp để tránh hậu quả xấu có thể xảy ra.
Chế độ tạm giữ, tạm giam người chưa thành niên phạm tội phải được bảo đảm theo đúng quy định của pháp luật hiện hành.
Cơ quan ra lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam người chưa thành niên phạm tội phải thông báo bằng văn bản cho gia đình, người đại diện hợp pháp của họ biết ngay sau khi bắt, tạm giữ, tạm giam theo quy định tại Khoản 3 Điều 303 BLTTHS.”
Theo quy định tại khoản 1, Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 thì Trung không phải là đối trượng phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng hay có căn cứ theo điểm b, khoản 1 Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự 2003. Đồng thời căn cứ khoản 4, Điều 1 Nghị quyết số 144/2016/QH13 về Áp dụng quy định có lợi cho người phạm tội (cụ thể là áp dụng khoản 1, Điều 419 Bộ luật tố tụng hình sự 2015) thì thời hạn tạm giam đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi bằng hai phần ba thời hạn tạm giam đối với người đủ 18 tuổi trở lên theo quy định tại Bộ luật này. Do đó việc tạm giam Trung từ ngày 10/01/2017 đến nay đã quá thời gian quy định là vi phạm nghiêm trọng quy định Điều 419 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.
Thứ ba: Lấy lời khai, hỏi cung bị can chưa thành niên vào ban đêm và không có người giám hộ hợp pháp
Trong các biên bản lấy lời khai, hỏi cung bị can từ ngày 19/01/2017 đến ngày 25/01/2017 đối với Trung không có người giám hộ hoặc người giám hộ không hợp pháp (do Cơ quan điều tra cử). Thậm chí, Cơ quan điều tra đã lấy lời khai của Trung vào ban đêm (từ 23 giờ ngày 19/01/2017 đến 0 giờ 15 phút ngày 20/01/2017) (bút lục số 319, 320).
Khi có đơn tố cáo của bà Đinh Thị Việt Lan (mẹ cháu Trung), ĐTV Phạm Đức Thắng (người được phân công điều tra vụ án) mới có Báo cáo vụ việc (bút lục số 91) gửi lãnh đạo Công an TP. Uông Bí. Tại báo cáo, ông Thắng trình bày: “Quá trình điều tra, lấy lời khai, hỏi cung bị can Đỗ Văn Trung do yêu cầu nghiệp vụ bản thân tôi nhận thấy nếu để cho bố, mẹ của người bị tạm giữ, bị can Đỗ Văn Trung tham gia giám hộ ghi lời khai ngay từ khi mới bắt giữ Đỗ Văn Trung thì không đảm bảo tính khách quan trong quá trình điều tra vụ án, nên tôi đã cho bí thư đoàn, hội phụ nữ của phường giám hộ chứng kiến việc ghi lời khai của Đỗ Văn Trung…”
Theo khoản 2 Điều 306 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định: “Trong trường hợp người bị tạm giữ, bị can là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi hoặc là người chưa thành niên có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc trong những trường hợp cần thiết khác, thì việc lấy lời khai, hỏi cung những người này phải có mặt đại diện của gia đình, trừ trường hợp đại diện gia đình cố ý vắng mặt mà không có lý do chính đáng. Đại diện gia đình có thể hỏi người bị tạm giữ, bị can nếu được Điều tra viên đồng ý; được đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu, khiếu nại; đọc hồ sơ vụ án khi kết thúc điều tra.”
Khoản 4 Điều 10 Thông tu liên tịch số 01/2011/TTLT-VKSTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH quy định về việc Lấy lời khai người bị tạm giữ, hỏi cung bị can quy định tại Điều 131 và khoản 2 Điều 306 BLTTHS :
“Điều 10. Lấy lời khai người bị tạm giữ, hỏi cung bị can quy định tại Điều 131 và Khoản 2 Điều 306 BLTTHS
Khi lấy lời khai người bị tạm giữ, hỏi cung bị can là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi hoặc là người chưa thành niên có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc trong những trường hợp cần thiết khác, cơ quan tiến hành tố tụng phải thông báo trước cho đại diện của gia đình để bảo đảm sự có mặt của họ. Việc lấy lời khai người bị tạm giữ, hỏi cung bị can khi không có mặt đại diện gia đình chỉ được thực hiện trong trường hợp người đó không có gia đình, đại diện gia đình cố ý vắng mặt mà không có lý do chính đáng hoặc họ từ chối tham gia.
Trường hợp đại diện gia đình của người bị tạm giữ, bị can không thể có mặt, để bảo đảm trình tự, thủ tục tố tụng được tiến hành kịp thời theo quy định, thì việc lấy lời khai người bị tạm giữ, hỏi cung bị can vẫn được thực hiện nhưng cơ quan tiến hành tố tụng phải mời cán bộ thuộc một trong các cơ quan Lao động – Thương binh và Xã hội, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên hoặc Luật sư tham gia lấy lời khai, hỏi cung.
Đại diện gia đình, cán bộ thuộc cơ quan Lao động – Thương binh và Xã hội, đại diện Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Luật sư có thể được bố trí ngồi cạnh người chưa thành niên để tạo tâm lý yên tâm, thoải mái cho họ.
Nếu thấy cần thiết cho quá trình lấy lời khai, hỏi cung thì có thể cho đại diện gia đình hỏi người bị tạm giữ, hỏi bị can những câu hỏi mang tính chất động viên, thuyết phục, giáo dục. Đại diện gia đình không được hỏi những câu hỏi mang tính chất gợi ý, định hướng, câu hỏi mang tính chất khẳng định, phủ định liên quan đến vụ án. Khi thấy đại diện gia đình có dấu hiệu thông cung, mớm cung phải lập tức yêu cầu đại diện gia đình dừng ngay việc hỏi và lập biên bản về việc này.”
Thứ tư: Xâm phạm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can
Quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can là một trong các quyền cơ bản và quan trọng nhất của người bị tạm giữ, bị can được quy định chung tại Điều 11, điểm d khoản 2 Điều 48; điểm e khoản 2 Điều 49 Bộ luật Tố tụng hình sự. Trường hợp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên thì bắt buộc phải có người bào chữa.
“Điều 305: Bào chữa
Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên có thể lựa chọn người bào chữa hoặc tự mình bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Trong trường hợp bị can, bị cáo là người chưa thành niên hoặc người đại diện hợp pháp của họ không lựa chọn được người bào chữa thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình.”
Cả một thời gian dài (từ ngày 19/01/2017 cho đến ngày 13/5/2017), chiếm phần lớn thời gian điều tra, Trung không có người bào chữa và không được tiếp cận với luật sư. Chỉ đến ngày 25/4/2017, Cơ quan CSĐT Công an TP. Uông Bí mới có văn bản số 380/CV gửi Đoàn Luật sư tỉnh Quảng Ninh đề nghị cử luật sư bào chữa cho bị can và phải đến ngày 13/5/2017 bị can mới có luật sư chỉ định bào chữa. Như vậy là vi phạm nghiêm trọng các quy định của pháp luật, không bảo đảm được quyền và lợi ích hợp pháp của bị can.
Thứ năm: Cản trở người bào chữa thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật
Ngày 27/06/2017, LS. Lê Đình Việt có Đơn đề nghị sao chụp hồ sơ vụ án, nhưng liên tục bị trì hoãn. Việc trì hoãn này kéo dài đến ngày 07/07/2017, khi VKS ra Quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung. Rõ ràng đây là hành vi cố ý cản trở, gây khó khăn, xâm phạm quyền và nghĩa vụ của người bào chữa được quy định tại Điều 58 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.
Ngày 15/08/2017, sau khi CQĐT kết thúc giai đoạn điều tra bổ sung, gửi bản kết luận điều tra và hồ sơ vụ án sang VKSND TP. Uông Bí, bà Lê Thị Kiều Oanh – kiểm sát viên của Viện tiếp tục xâm phạm quyền sao chụp hồ sơ của LS. Lê Đình Việt khi từ chối cung cấp 210 bút lục trong vụ án (hồ sơ vụ án có 515 bút lục).
Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa được quy định tại Điều 58 Bộ luật tố tụng hình sự như sau:
“Điều 58. Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa
Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Trong trường hợp bắt người theo quy định tại Điều 81 và Điều 82 của Bộ luật này thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ. Trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia, thì Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.
Người bào chữa có quyền:
a) Có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa;
b) Đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can;
c) Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này;
d) Thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác;
đ) Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
e) Gặp người bị tạm giữ; gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam;
g) Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật;
h) Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên toà;
i) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
k) Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất quy định tại điểm b khoản 2 Điều 57 của Bộ luật này.
Người bào chữa có nghĩa vụ:
a) Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.
Tùy theo mỗi giai đoạn tố tụng, khi thu thập được tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án, thì người bào chữa có trách nhiệm giao cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Việc giao nhận các tài liệu, đồ vật đó giữa người bào chữa và cơ quan tiến hành tố tụng phải được lập biên bản theo quy định tại Điều 95 của Bộ luật này;”
b) Giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ;
c) Không được từ chối bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà mình đã đảm nhận bào chữa, nếu không có lý do chính đáng;
d) Tôn trọng sự thật và pháp luật; không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật;
đ) Có mặt theo giấy triệu tập của Toà án;
e) Không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực hiện việc bào chữa; không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân.
Người bào chữa làm trái pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa, xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.”
Vụ án có nhiều dấu hiệu thể hiện việc khởi tố không có căn cứ và liên tục xuất hiện các vi phạm tố tụng nghiêm trọng. Việc thực hiện quyền của luật sư bào chữa bị cản trở. Những vi phạm này ảnh hưởng lớn đến việc xác định sự thật khách quan của vụ án, như: Cơ quan điều tra đã vi phạm nghiêm tọng quy định trong tố tụng hình sự khi không thông báo bắt, tam giam Trung cho người đại diện hợp pháp; tiến hành lấy lời khai không có người đại diện; mời những người giám hộ cho bị can không đứng theo quy định và không hỏi ý kiến người đại diện để cử người bào chữa cho Trung (là người chưa thành niên). Do đó, tất cả những tài liệu có được từ hoạt động điều tra vi phạm tố tụng nghiêm trọng trên đều không có giá trị trong việc giải quyết vụ án.