Tái phạm và tái phạm nguy hiểm được Bộ luật hình sự quy định dưới nhiều khía cạnh. Đây cũng là tình tiết định tội hoặc định khung trong hình sự. Tổng đài tư vấn pháp luật hình sự TGS đã nhận được nhiều câu hỏi thắc mắc về quy định của pháp luật đối với tái phạm và tái phạm nguy hiểm.
Sau đây
Văn phòng luật TGS sẽ giải đáp giúp bạn đọc những thông tin về tái phạm như sau:
Theo khoản 1, điều 53, Văn bản hợp nhất số 01/VBHN- VPQH thì:
“Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý”.

Bắt giữ đối tượng tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm
Với quy định tại khoản 1 Điều 53 Bộ luật Hình sự thì tội phạm mà người phạm tội bị kết án trước đó bất kể tội nào, không phụ thuộc vào loại tội, dấu hiệu lỗi. Đó có thể là tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng; lỗi của người phạm tội có thể là cố ý, có thể là vô ý
Theo khoản 1 Điều 53 Bộ luật Hình sự, thuật ngữ “đã bị kết án” gắn liền với thuật ngữ “chưa được xóa án tích”. Trong khi đó, việc xóa án tích gắn với việc thi hành án. Cho nên, chỉ khi bản án có hiệu lực pháp luật thì việc xóa án tích mới đặt ra. Đồng thời, theo các Điều 69, 70 và 71 Bộ luật Hình sự, việc xóa án tích gắn với việc đã bị tuyên phạt theo các hình phạt do Bộ luật Hình sự quy định và miễn hình phạt. Tuy nhiên, miễn hình phạt đương nhiên được xóa án tích cho nên, miễn hình phạt không nằm trong phạm vi xem xét tái phạm. Bên cạnh đó, theo Từ điển tiếng Việt, kết án là việc Tòa án định tội và tuyên bố hình phạt. Vì vậy, có thể hiểu “đã bị kết án” là đã bị Tòa án tuyên bố phạm tội và áp dụng hình phạt do Bộ luật Hình sự quy định, bất kể đó là hình phạt gì, không bao hàm trường hợp được miễn hình phạt và thời điểm được tính tái phạm khi bản án có hiệu lực pháp luật, tức là, một người phạm tội mới sau khi lần phạm tội trước bị kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật. Việc “đã bị kết án” chỉ được loại trừ đối với trường hợp được Tòa án tuyên không phạm tội, người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự hoặc trường hợp họ bị tuyên phạm tội nhưng không áp dụng hình phạt mà áp dụng biện pháp tư pháp do Bộ luật Hình sự quy định gồm: bắt buộc chữa bệnh (Điều 49); giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc đưa vào trường giáo dưỡng (Điều 95)

Tái phạm theo bộ luật hình sự 2015
Bên cạnh đó, khi xem xét dấu hiệu đã bị kết án còn phải lưu ý độ tuổi của người phạm tội trong lần bị kết án trước đó. Theo khoản 7 Điều 91 Bộ luật Hình sự, “Án đã tuyên đối với người chưa thành niên phạm tội khi chưa đủ 16 tuổi, thì không tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm”. Cho nên, trường hợp, án đã tuyên trước đó đối với người phạm tội khi họ chưa đủ 16 tuổi thì không xem xét để xác định người phạm tội có tái phạm hay không
Thứ hai, người bị kết án và bản án đã kết án đối với họ chưa được xóa án tích: Việc xem xét một người bị kết án đã được xóa án tích hay chưa cần dựa vào quy định về xóa án tích do Bộ luật Hình sự quy định tại các điều từ Điều 69 đến 73 Bộ luật Hình sự. Theo đó, việc xác định một người đã bị Tòa án xử phạt có được xóa án tích hay chưa phải xem xét họ đã chấp hành xong nội dung bản án liên quan đến họ hay chưa bao gồm: hình phạt chính, hình phạt bổ sung và các quyết định khác của bản án (như án phí, bồi thường thiệt hại…) chứ không chỉ dựa vào hình phạt chính đã tuyên đối với họ
Thứ ba, người phạm tội lại phạm tội mới do cố ý hoặc phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do vô ý: Dấu hiệu này đòi hỏi tội sau mà người phạm tội thực hiện phải là tội do cố ý (không phân biệt tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng, tội đặt biệt nghiêm trọng) hoặc tội do vô ý nhưng chỉ đối với tội rất nghiêm trọng, tội đặt biệt nghiêm trọng. Ngoài ra, người phạm tội chỉ bị xem là tái phạm khi hành vi phạm tội sau của họ đáp ứng các dấu hiệu cấu thành tội phạm độc lập (có thể cùng loại với tội đã bị kết án trước đó hoặc khác loại với tội đã bị kết án trước đó)
Cảm ơn bạn đọc đã quan tâm theo dõi!
Luật sư – Nguyễn Văn Tuấn – Giám Đốc Công ty Luật TGS
Ông là một luật sư giỏi có nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực đất đai. Luật sư đã tham gia tranh tụng nhiều vụ án tranh chấp đất đai, vụ án hình sự, kinh tế, thương mại,.. trên toàn quốc.
Luật sư Nguyễn Đức Hùng – Phó Giám Đốc Công ty Luật TGS
Thạc sĩ, Luật sư Nguyễn Đức Hùng là một luật sư giỏi, đã từng công tác tại Công ty Luật TNHH NHB và nhiều công ty luật có thương hiệu khác, với hơn 10 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực Đất đai, hình sự, dân sự..
Luật sư Nguyễn Đức Hùng – Luật sư Công ty Luật TGS
Luật sư Đức Hùng từng công tác tại nhiều tổ chức hành nghề luật sư uy tín, có nhiều năm kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực tranh tụng hình sự, đất đai, tranh chấp dân sự, hôn nhân gia đình.
Luật sư Hà Huy Sơn – Luật sư Công ty Luật TGS
Là một luật sư giỏi trong lĩnh vực hình sự. Với hơn 10 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực Hình Sự, luật sư Hà Huy Sơn đã gây dựng được cho mình thương hiệu riêng và sự uy tín vững chắc đối với khách hàng.