Câu hỏi:
Người bị tạm giam, tạm giữ để phục vụ cho công tác điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự được quản lý như thế nào? Các chế độ của người bị tạm giam, tạm giữ có giống với phạm nhân đang chấp hành án phạt tù hay không?
>>Xem thêm: Bị can và bị cáo trong vụ án hình sự
Trả lời:
Người bị tạm giam, tạm giữ để phục vụ cho quá trình tố tụng hình sự về nguyên tắc chưa phải là người có tội vì chưa có bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Nói cách khác, khi bị tạm giam, tạm giữ họ vẫn chưa được coi là phạm nhân nên quá trình quản lý, các chế độ với những người này cũng hoàn toàn khác với phạm nhân chấp hành án phạt tù.
Trước kia, người bị tạm giữ, tạm giam được quản lý theo Nghị định 89/1998/NĐ-CP của Chính phủ về Quy chế tạm giữ, tạm giam. Đến năm 2015, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam đã được ban hành mới và có hiệu lực điều chỉnh kể từ ngày 1/1/2018. Trong quy định của luật, việc quản lý ở trại tạm giam, nhà tạm giữ được thực hiện như sau:
1. Việc phân loại người bị tạm giữ, tạm giam
Người bị tạm giữ, tạm giam phải được phân loại để giam giữ. Theo điều 18, Luật tạm giữ, tạm giam năm 2015 thì việc phân loại dựa theo các căn cứ:
+ Người bị tạm giữ;
+ Người bị tạm giam;
+ Người dưới 18 tuổi;
+ Phụ nữ;
+ Người nước ngoài;
+ Người mắc bệnh truyền nhiễm;
+ Người thực hiện hành vi phạm tội có tính chất côn đồ; giết người; cướp tài sản thuộc loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; tái phạm nguy hiểm;
+ Người phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia;
+ Người bị kết án tử hình;
+ Người đang chờ chấp hành án phạt tù;
+ Người thường xuyên vi phạm nội quy của cơ sở giam giữ;
+ Người có dấu hiệu mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình nhưng chưa được giám định, đang chờ kết quả giám định hoặc đang chờ đưa đi cơ sở bắt buộc chữa bệnh.
Ngoài ra, những người sau đây có thể được giam giữ tại buồng riêng gồm:
+ Người đồng tính, chuyển giới;
+ Phụ nữ có thai hoặc có con dưới 36 tháng tuổi;
+ Người bị bệnh truyền nhiễm, người bị kết án tử hình, người bị bệnh tâm thần.
2. Các chế độ của người bị tạm giam, tạm giữ
Người bị tạm giam, tạm giữ cũng được hưởng các chế độ về ăn, mặc, tư trang, sinh hoạt hay gửi thư… trong quá trình bị tạm giam, tạm giữ. Quy định cụ thể về các vấn đề này tại Chương IV Luật thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015.
– Chế độ ăn, ở: Được đảm bảo đúng tiêu chuẩn gạo, rau, thịt, cá, đường, muối…Ngày lễ được tăng thêm. Chế độ ăn căn cứ vào sức khỏe con người, ngân sách thực tế. Mỗi người được đảm bảo chỗ nằm 2 mét vuông, bố trí sàn, chiếu. Người bị tạm giữ, tạm giam cũng được nhận quà của nhân thân gửi.
– Chế độ mặc, tư trang: Được sử dụng quần áo, tư trang, đồ dùng sinh hoạt của cá nhân, nếu thiếu thì được cho mượn. Đối với phụ nữ thì được cấp đồ dùng vệ sinh.
– Chế độ gửi thư, sách báo, tài liệu: Chỉ được gửi, thư, báo, tài liệu khi được cơ quan thụ lý giải quyết vụ án cho phép.
– Chế độ chăm sóc y tế: Được hưởng chế độ khám, chữa, phòng bệnh. Trường hợp ốm đau thì được điều trị tại cơ sở y tế phù hợp.
– Chế độ sinh hoạt tinh thần: Cơ sở giam giữ được trang bị hệ thống truyền thanh: báo, nghe phát thanh, xem truyền hình theo quy chế.
∗ Kết luận, việc tạm giữ, tạm giam được tiến hành độc lập với việc thi hành án phạt tù của phạm nhân. Chế độ sinh hoạt, ăn ở, tư trang của người bị tạm giữ, tạm giam cũng được pháp luật quy định riêng biệt trong văn bản riêng.