Câu hỏi:
Gần đây, có thông tin facebook hay một vài mạng xã hội khác cung cấp dịch vụ tiến hành thu thập, và mua bán trái phép các thông tin của người dùng. Vậy, việc xử lý trách nhiệm theo pháp luật đối với hành vi này được thực hiện như thế nào?
Trả lời:
Thông tin, bí mật cá nhân được pháp luật tất cả các nước trên thế giới bảo hộ và Việt Nam cũng vậy. Nghĩa vụ bảo mật thông tin của các mạng xã hội được ghi nhận tại điểm c, khoản 2, điều 17, Luật an toàn thông tin mạng năm 2015 “Không được cung cấp, chia sẻ, phát tán thông tin cá nhân mà mình đã thu thập, tiếp cận, kiểm soát cho bên thứ ba…”. Do đó, nếu vi phạm sẽ phải chịu các trách nhiệm sau đây:
1. Xử phạt vi phạm hành chính
Với hành vi thu thập, sử dụng và chia sẻ trái phép các thông tin của người dùng bởi các mạng xã hội, pháp luật Việt Nam đã có văn bản điều chỉnh, xử phạt vi phạm hành chính về lĩnh vực này. Cụ thể tại điều 66, Nghị định 174/2013/NĐ-CP của Chính phủ ban hành về quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin và tần số vô tuyến, đã quy định về việc xử phạt đối với các hành vi vi phạm về lưu trữ, cho thuê, truyền đưa, cung cấp, truy nhập, thu thập, xử lý, trao đổi và sử dụng thông tin. Đối với hành vi nêu trên, xử phạt như sau:
-Phạt 10 đến 20 triệu đồng với việc thu thập, xử lý và sử dụng thông tin của tổ chức, cá nhân khác mà không được sự đồng ý hoặc sai mục đích theo pháp luật (điểm e khoản 3)
-Phạt 50 đến 70 triệu đồng với việc mua bán hoặc trao đổi trái phép thông tin riêng của người sử dụng dịch vụ viễn thông (điểm a, khoản 5).
2. Truy cứu trách nhiệm hình sự
Ở một mức độ nghiêm trọng hơn của hành vi này và thỏa mãn đầy đủ các yếu tố của cấu thành tội phạm, người vi phạm sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật hình sự thay vì bị xử phạt hành chính. Luật hình sự năm 2015 tại điều 288 đã quy định về “Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn thông”. Theo đó, xử lý hành vi mua bán, trao đổi, tặng cho, sửa chữa, thay đổi hoặc công khai thông tin riêng của cơ quan, cá nhân, tổ chức trên mạng máy tính, mạng viễn thông mà không được phép của chủ sở hữu thông tin đó. Khung hình phạt cho tội phạm này có hai mức là phạt tiền từ 30 đến 200 triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến 3 năm, phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm (khung cơ bản); phạt tiền 100 đến 200 triệu, phạt tù từ 2 năm đến 7 năm (khung tăng nặng).
Ngoài ra, hành vi thu thập các thông tin hòm thư bí mật của người dùng của các mạng xã hội cũng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo “Tội xâm phạm bí mật an toàn thư tín, điện thoại, điện tín hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư của người khác”.
3. Buộc bồi thường thiệt hại
Các người dùng của các mạng xã hội ngoài ra có thể khởi kiện vụ án dân sự yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại theo căn cứ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (hoặc trong hợp đồng tùy từng trường hợp) vì hành vi vi phạm nêu trên. Cụ thể, theo căn cứ tại điều 584, BLDS năm 2015 thì “người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”. Tuy nhiên, trên thực tế, yêu cầu đòi bồi thường của các người dùng mạng xã hội sẽ rất khó khăn vì yêu cầu chứng minh, chứng cứ cũng như tiềm lực về tài chính, năng lực cũng như thời gian rất kém.
⇒ Kết luận, hành vi thu thập, sử dụng, phân phối thông tin trái phép của người dùng các mạng xã hội sẽ bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự tùy thuộc vào mức độ nguy hiểm. Đồng thời, người bị hại có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm đó gây ra.
Luật sư – Nguyễn Văn Tuấn – Giám Đốc Công ty Luật TGS
Ông là một luật sư giỏi có nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực đất đai. Luật sư đã tham gia tranh tụng nhiều vụ án tranh chấp đất đai, vụ án hình sự, kinh tế, thương mại,.. trên toàn quốc.
Luật sư Nguyễn Đức Hùng – Phó Giám Đốc Công ty Luật TGS
Thạc sĩ, Luật sư Nguyễn Đức Hùng là một luật sư giỏi, đã từng công tác tại Công ty Luật TNHH NHB và nhiều công ty luật có thương hiệu khác, với hơn 10 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực Đất đai, hình sự, dân sự..
Luật sư Nguyễn Đức Hùng – Luật sư Công ty Luật TGS
Luật sư Đức Hùng từng công tác tại nhiều tổ chức hành nghề luật sư uy tín, có nhiều năm kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực tranh tụng hình sự, đất đai, tranh chấp dân sự, hôn nhân gia đình.
Luật sư Hà Huy Sơn – Luật sư Công ty Luật TGS
Là một luật sư giỏi trong lĩnh vực hình sự. Với hơn 10 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực Hình Sự, luật sư Hà Huy Sơn đã gây dựng được cho mình thương hiệu riêng và sự uy tín vững chắc đối với khách hàng.