Tình huống pháp lý:
Anh Nguyễn Văn P (nhân viên Bảo vệ Cửa hàng Điện máy xanh có xảy ra mâu thuẫn với khách hàng và bị chị Huỳnh Thị D là quản lý của cửa hàng biết sự việc. chị D gọi P vào phòng làm việc để nói chuyện, yêu cầu P viết bản tường trình và làm bản cam kết liên quan đến sự việc trên nhưng P không đồng ý.
Sau đó, P và chị D xảy ra mâu thuẫn, chị D nói sẽ báo cáo sự việc lên cấp trên và dọa sẽ đuổi việc P. Bực tức, P lấy con dao gần đó đâm một nhát trúng vào cổ chị D. Nạn nhân được nhân viên của cửa hàng đưa đi cấp cứu nhưng do vết thương quá nặng, chị D đã tử vong.
Trong trường hợp này P sẽ bị truy cứu về tội gì và mức hình phạt như thế nào? Cảm ơn Luật sư đã giải đáp.
Quan điểm của Công ty Luật TGS LAW
“Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”. Điều 8 Bộ Luật Hình sự 2015.
Theo đó, trong trường hợp trên, hành vi của P đã trực tiếp xâm phạm quyền được bảo vệ về sức khỏe, tính mạng của công dân. Đây là hành vi không những vi phạm pháp luật mà còn là hành vi trái đạo đức xã hội, chỉ vì một vấn đề nhỏ mà P đã thực hiện hành vi tội ác dẫn đến hậu quả không đáng có. Hành vi này của P có dấu hiệu của tội Giết người theo Điều 123 Bộ luật Hình sự 2015, biểu hiện cụ thể qua các mặt sau:
Về chủ thể:
Chủ thể của Tội giết người là con người cụ thể, có đủ điều để có lỗi khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Người có đủ điều kiện để có lỗi, để trở thành chủ thể của tội phạm phải là người có năng lực trách nhiệm hình sự – năng lực nhận thức được ý nghĩa xã hội của hành vi và năng lực điều khiển hành vi theo đòi hỏi tất yếu của xã hội.
Trên cơ sở nghiên cứu tâm sinh lý con người Việt Nam, truyền thống lập pháp và các chính sách pháp luật, độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự về Tội này là người từ đủ 14 tuổi trở lên.
Về năng lực trách nhiệm hình sự sẽ được xem xét trên phương diện dấu hiệu y học và dấu hiệu tâm lý của người phạm tội để làm căn cứ truy cứu, miễn truy cứu hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Về khách thể:
Khách thể của tội giết người là quan hệ nhân thân mà nội dung của nó là quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người, đây là một trong các quyền tự nhiên, thiêng liêng và cao quý nhất của con người, không một quyền nào có thể so sánh được. Bất cứ ai xâm phạm đến quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người đều phải bị trừng trị nghiêm khắc.
Việc P có hành vi tước đoạt tính mạng của chị D xâm phạm quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người thông qua sự tác động làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động – con người đang sống.
>>> Click xem thêm: Những quy định áp dụng đối với người dưới 18 tuổi
Về mặt khách quan:
Mặt khách quan của tội phạm này là những biểu hiện bên ngoài của tội phạm bao gồm hành vi, hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm và hoàn cảnh phạm tội.
Hành vi khách quan
Hành vi khách quan của Tội giết người có thể được thực hiện qua hành động hoặc không hành động. Hành vi này là những biểu hiện của con người ra ngoài thế giới khách quan có sự kiểm soát của ý thức và sự điều khiển của ý chí. Đây là điều kiện cần, còn điều kiện đủ là hành vi đó phải gây ra hoặc có khả năng gây ra cái chết cho người khác một cách trái pháp luật.
Ở trường hợp này, rõ ràng P đã thực hiện các hành động phạm tội dẫn tới hậu quả là chị D chết.
Hậu quả
Tội giết người có cấu thành vật chất, hậu quả của tội phạm này là thiệt hại do hành vi phạm tội giết người gây ra cho quan hệ nhân thân, cho quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người. Thiệt hại này được thể hiện dưới dạng thiệt hại về thể chất – hậu quả chết người khác.
Mối quan hệ nhân quả
Đối với Tội Giết người, hành vi khách quan là nguyên nhân gây ra hậu quả chết người và thỏa mãn các điều kiện sau:
1) Hành vi xảy ra trước hậu quả về mặt thời gian;
2) Hành vi độc lập hoặc trong mối liên hệ tổng hợp với một hay nhiều hiện tượng khác phải chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả chết người khác.
3) Hậu quả chết người khác đã xảy ra phải đúng là sự hiện thực hóa khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả của hành vi khách quan.
Ngoài các khía cạnh trên cũng cần xem xét đến công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm và hoàn cảnh phạm tội.
Về mặt chủ quan
Mặt chủ quan của tội phạm là diễn biến tâm lý bên trong của người phạm tội bao gồm: Lỗi, động cơ và mục đích phạm tội.
- Lỗi: Lỗi của người phạm tội giết người có thể là lỗi cố ý trực tiếp hoặc lỗi cố ý gián tiếp.
Theo quy định tại Điều 10 BLHS năm 2015 thì lỗi cố ý trực tiếp giết người là lỗi trong trường hợp người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, nhiều khả năng hoặc tất yếu làm nạn nhân chết nhưng vẫn mong muốn nạn nhân chết. Lỗi cố ý gián tiếp giết người là lỗi trong trường hợp người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, có thể làm nạn nhân chết, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc hoặc chấp nhận hậu quả nạn nhân chết.
- Động cơ và mục đích phạm tội:
Trong mặt chủ quan của Tội giết người động cơ và mục đích phạm tội, tuy nhiên trong một số trường hợp việc xác định đúng động cơ, mục đích phạm tội sẽ giúp định đúng tội danh, xác định đúng khung hình phạt và phân biệt được Tội giết người với một số tội phạm khác.
Về hình phạt
Theo Điều 123 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017, hình phạt đối với người phạm Tội giết người quy định như sau:
Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:
- a) Giết 02 người trở lên;
- b) Giết người dưới 16 tuổi;
- c) Giết phụ nữ mà biết là có thai;
- d) Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;
đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;
- e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
- g) Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác;
- h) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;
- i) Thực hiện tội phạm một cách man rợ;
- k) Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp;
- l) Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người;
- m) Thuê giết người hoặc giết người thuê;
- n) Có tính chất côn đồ;
- o) Có tổ chức;
- p) Tái phạm nguy hiểm;
- q) Vì động cơ đê hèn.
Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.
Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
Người phạm tội còn có thể bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm.
Trên đây là những tư vấn của Luật sư Công ty Luật TGS về Tội giết người. Nếu còn có vấn đề chưa rõ hãy gọi ngay: 1900.8698 để được Luật sư tư vấn trực tuyến qua tổng đài tư vấn miễn phí.