Thế nào là tội đồng phạm trong Bộ luật hình sự 2015
Điều 17 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) quy định: “Tội đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm”.
Tội đồng phạm là hình thức phạm tội đặc biệt của trường hợp phạm tội cố ý có nhiều người tham gia. Với sự tham gia của nhiều người thì không thể chỉ có người thực hiện tội phạm mà có thể có người cùng thực hiện tội phạm hoặc có người giúp sức thực hiện tội phạm hoặc có người xúi giục thực hiện tội phạm hoặc có người tổ chức thực hiện tội phạm. Sự tham gia của nhiều người vào việc phạm tội có thể là đồng phạm và cũng có thể không phải là đồng phạm.
Cấu thành tội phạm đồng phạm không được quy định trực tiếp cho từng tội danh. Dấu hiệu của các hành vi tổ chức, xúi giục, giúp sức thực hiện tội phạm được quy định trong các quy phạm phần chung Bộ luật hình sự, các dấu hiệu được mô tả trong cấu thành đồng phạm là các dấu hiệu định tội cho trường hợp phạm tội của người tổ chức, người xúi giục và người giúp sức thực hiện tội phạm.
Các dấu hiệu của tội đồng phạm trong bộ luật hình sự
Thứ nhất, hành vi phạm tội đồng phạm phải xâm hại cùng khách thể.
A, B và C bàn nhau đến nhà D lấy trộm. Nhưng vốn do có thù hằn với D từ trước, nên nhân lúc A và B mãi lấy tài sản, C đã giết chết D. Trong tình huống này, A, B và C là đồng phạm “tội trộm cắp tài sản” (điều 173) vì cùng có hành vi nguy hiểm xâm hại đến cùng khách thể là quyền sở hữu của D; tuy nhiên đối với cái chết của D, thì A và B không phải là đồng phạm của C, vì trong trường hợp này, chỉ có C mới có hành vi nguy hiểm xâm hại đến khách thể là tính mạng của D, nên chỉ có C phải chịu trách nhiệm hình sự về “tội giết người” (điều 123).
Thứ hai, mặt khách quan của đồng phạm phải thỏa mãn hai dấu hiệu: có từ hai người trở lên và những người này có đủ điều kiện là chủ thể của tội phạm, đồng thời những người này phải cùng thực hiện tội phạm với lỗi cố ý.
Những người trong đồng phạm đều cùng cố ý hướng đến việc thực hiện cùng một tội phạm, vì thế giữa hành vi của mỗi người trong đồng phạm và hậu quả của tội phạm đều phải có mối quan hệ nhân quả với nhau.
Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 chia thành bốn loại người trong đồng phạm, được quy định tại khoản 2 Điều 17, bao gồm: người thực hành; người tổ chức; người xúi giục và người giúp sức.
Trong trường hợp nhiều người cùng tham gia với vai trò là người thực hành thì không cần mỗi người phải thực hiện đầy đủ các yếu tố của cấu thành tội phạm mà chỉ cần tổng hợp hành vi của những người thực hành này thỏa mãn các dấu hiệu của cấu thành tội phạm. Nếu tội phạm được thực hiện dưới hình thức đồng phạm có sự tham gia của nhiều dạng người: người tổ chức; người xúi giục; người giúp sức thì quy tắc chung khi định tội đối với những hành vi của những người trong đồng phạm sẽ vận dụng điều 17 Bộ luật hình sự để xác định vai trò của từng người trong đồng phạm và đồng thời định tội theo điều luật thuộc phần các tội phạm của Bộ luật hình sự đối với người thực hiện. Xem thêm: Văn phòng luật sư hà nội
Bởi vì, trong một vụ án có đồng phạm thì người thực hiện đóng một vai trò rất quan trọng, hành vi phạm tội của người thực hành là căn cứ để định tội: người thực hành thực hiện tội phạm đến giai đoạn nào thì những người đồng phạm khác sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự đến giai đoạn đó.
Hành vi tổ chức, xúi giục, giúp sức của những người đồng phạm khác có những ảnh hưởng nhất định đến quá trình thực hiện tội phạm của người thực hành, nhưng không vì thế mà ta cho rằng hành vi tổ chức, xúi giục, giúp sức và hậu quả tội phạm xảy ra là có mối quan hệ nhân quả với nhau.
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả nguy hiểm cho xã hội chỉ đặt ra trong trường hợp hành vi phạm tội của người thực hành trực tiếp gây ra hậu quả và hậu quả đó là kết quả tất yếu của hành vi phạm tội mà người thực hành đã thực hiện. Còn những người tổ chức, xúi giục, giúp sức bằng hành vi của mình tham gia vào việc thực hiện tội phạm thông qua hành vi tội phạm của người thực hành.
Ví dụ, do có thù hằn A đã thuê B giết chết C, trong trường hợp này B là người thực hành, trực tiếp thực hiện hành vi tước đoạt tính mạng của C, còn A đóng vai trò là kẻ chủ mưu trong vụ án này. Hoặc trong một ví dụ khác, do từng bị K đánh trọng thương, nên T đã nung nấu ý định giết K để trả thù, T đã nói ý định này cho Q biết, do cũng có ân oán từ lâu với K nên Q đã nói với T “muốn giết thì dùng thuốc chuột mà giết” và đưa cho T gói thuốc chuột, T đã dùng gói thuốc này bỏ vào giếng nước của K, và hậu quả là K chết do ngộ độc. Trong trường hợp này, T là người thực hành trực tiếp thực hiện tội phạm, còn Q là đồng phạm “tội giết người” (điều 123) với vai trò là người xúi giục và giúp sức.
Đối với người giúp sức, hành vi giúp sức có thể thông qua hành động hoặc không hành động. Cũng xem là hành vi giúp sức trong trường hợp một người hứa hẹn sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện hành vi phạm tội, sau khi tội phạm kết thúc. Việc hứa hẹn này phải diễn ra trước khi tội phạm được thực hiện hoặc tội phạm chưa kết thúc.
Thứ ba, trong vụ đồng phạm phải có ít nhất hai chủ thể phạm tội. Khoản 1 điều 17 Bộ luật hình sự quy định: “đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện tội phạm”.
Ví dụ, B là thủ quỹ của cơ quan X, đã mượn G một số tiền lớn nhưng vẫn chưa có khả năng thanh toán. Lợi dụng tình cảnh này, G đã xúi giục B tham ô tài sản của cơ quan. Trong trường hợp này, B và G đều là đồng phạm về “tội tham ô tài sản” (điều 353), trong đó B là người thực hành – là chủ thể đặc biệt của tội phạm, còn G là đồng phạm với vai trò xúi giục dù G không có chức vụ, quyền hạn.
>>> Xem thêm: Công ty luật sư chuyên về hình sự
Thứ tư, để có đồng phạm, khi thực hiện tội phạm, những người trong đồng phạm phải có lỗi cố ý. Đồng phạm theo quy định tại khoản 1 điều 17 “…là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm”.
Những người tham gia trong đồng phạm bao giờ cũng thực hiện tội phạm với lỗi cố ý. Lỗi cố ý này thể hiện ở chỗ những người trong đồng phạm khi tham gia vào việc thực hiện hành vi phạm tội, họ đều nhận thức được mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi do mình thực hiện và biết người đồng phạm khác cũng có hành vi nguy hiểm như thế; thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi do mình gây ra cũng như hậu quả chung của tội phạm mà họ tham gia thực hiện và họ cũng mong muốn hậu quả chung xảy ra hoặc có ý thức để mặc cho hậu quả phát sinh.
Như vậy, lỗi cố ý trong đồng phạm có thể là cố ý trực tiếp, và cũng có thể là cố ý gián tiếp. Nếu những người tham gia thực hiện tội phạm đều nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi do mình thực hiện và nhận biết được tính nguy hiểm của hành vi của người đồng phạm khác, họ đều thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình cũng như hậu quả chung của tội phạm và cùng mong muốn cho hậu quả xảy ra thì đó là lỗi cố ý trực tiếp.
Những người tham gia thực hiện tội phạm nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà mình thực hiện và cũng biết người khác cũng có hành vi nguy hiểm như mình, họ đều thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình cũng như hậu quả chung của tội phạm mà họ tham gia và họ cũng có ý thức để mặc cho hậu quả của tội phạm xảy ra, đó chính là lỗi cố ý gián tiếp.
Ví dụ, A được người nhà đưa vào bệnh viện cấp cứu do bị bệnh nặng. B và C là hai bác sĩ trực ban đã bàn nhau sách nhiễu đòi hối lộ của gia đình A. khi cùng nhau có hành vi sách nhiễu này, cả B và C đều ý thức được rằng nếu không cấp cứu kịp thời, thì A có thể sẽ chết nhưng với mục đích muốn vòi tiền, nên B và C đã cố tình níu kéo, trì hoãn những thao tác nghề nghiệp cần thiết. Hành vi đó dẫn đến hậu quả là A bị thiệt mạng. Trường hợp này B và C là đồng phạm tội giết người với lỗi cố ý gián tiếp.
Về mục đích phạm tội, để xác định xem có đồng phạm hay không, chúng ta phải xác định được tội phạm được thực hiện. Theo điều luật tương ứng trong Bộ luật hình sự có quy định mục đích phạm tội là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm, như vậy những người tham gia trong vụ án là đồng phạm với nhau nếu họ có cùng mục đích khi tham gia thực hiện tội phạm đó hoặc nếu không có cùng mục đích thì cũng phải có sự tiếp nhận mục đích của nhau.
Ví dụ, một nhóm người có cùng mục đích là chống chính quyền nhân dân đã cùng nhau thu thập tin tức thuộc bí mật nhà nước để cung cấp cho nước ngoài (có cùng mục đích được quy định trong cấu thành tội phạm) hoặc trường hợp một người biết rõ người khác đang tập hợp lực lượng để hoạt động nhằm chống chính quyền nhân dân nhưng vì được trả tiền nên vẫn giúp người kia thực hiện hoạt động tập hợp lực lượng (tức là tiếp nhận mục đích được quy định trong cấu thành tội phạm).
Về động cơ phạm tội
Vấn đề xác định xem có đồng phạm hay không cũng dựa trên cơ sở xác định xem dấu hiệu động cơ có phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm hay không. Trong trường hợp những người tham gia thực hiện hành vi nguy hiểm mà điều luật tương ứng quy định dấu hiệu động cơ là dấu hiệu bắt buộc (ví dụ như động cơ cá nhân trong tội giả mạo công tác điều 359) thì chỉ khi người đó có động cơ như vậy hoặc ít nhất là phải tiếp nhận động cơ này từ người phạm tội kia thì họ mới có thể là đồng phạm, và trong trường hợp ngược lại thì chỉ riêng người thỏa mãn dấu hiệu động cơ mới có thể là người phạm tội.
Ví dụ, nếu một người phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ (điều 356) nhận được sự giúp đỡ của một nhân viên để thực hiện tội phạm nhưng bản thân nhân viên đó không có động cơ mà điều luật quy định và cũng không biết động cơ của người có chức vụ, quyền hạn là vì động cơ cá nhân thì nhân viên đó không thể được xem là người giúp sức trong vụ án nói trên.
Trên đây là các dấu hiệu để nhận biết và phân biệt giữa tội đồng phạm và phạm tội đơn lẻ. Để được tư vấn một cách cụ thể và chính xác xin vui lòng liên hệ Văn phòng luật sư tư vấn miễn phí 1900.8698. Mọi vấn đề của bạn sẽ được giải đáp nhanh chóng và hiệu quả nhất.