Câu hỏi:
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo và quyền được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố được quy định như thế nào theo pháp luật tố tụng hình sự?
Trả lời:
Nhằm hướng tới việc tranh tụng bình đẳng giữa các Cơ quan tiến hành tố tụng và người bị buộc tội, pháp luật về tố tụng hình sự ở nước ta hiện nay đã đưa “quyền bào chữa” của người bị buộc tội trở thành một nguyên tắc chủ đạo. Theo đó, tại Điều 16 Luật tố tụng hình sự năm 2015 có quy định như sau “Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa” . Theo chỉ đạo của nguyên tắc này, quyền được bào chữa của người bị buộc tội đã được quy định cụ thể trong nội dung của luật tố tụng hình sự như sau.
1. Đối với người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố
Người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố là những người dù chưa có quyết định khởi tố bị can hay quyết định xét xử đối với bị cáo. Tuy nhiên, họ có liên quan vì bị người khác cho rằng đã thực hiện một hành vi phạm tội và tố giác với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Khi đó, cơ quan điều tra sẽ tiến hành điều tra ban đầu để xác định xem có hành vi phạm tội hay không để khởi tố vụ án. Người bị tố giác sẽ phải tham gia trong quá trình điều tra này, có khả năng bị khởi tố bị can và tham gia vào một vụ án hình sự nên để bảo vệ quyền lợi của họ, pháp luật cho họ quyền bào chữa. Cụ thể tại Điều 57 Khoản 1 Điểm e Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định như sau, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố có quyền “Tự bảo vệ hoặc nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình”. Vì chưa chính thức xuất hiện một vụ án hình sự nên chưa có tư cách người bào chữa mà chỉ là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp.
2. Đối với bị can, bị cáo
Bị can là người đã có quyết định khởi tố bị can. Bị cáo là người đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử. Những người này là chủ thể trực tiếp tham gia một vụ án hình sự để điều tra về hành vi của họ là có phạm tội hay không. Trong quá trình điều tra, xét xử đó, bị can, bị cáo được bào chữa và nhờ người khác bào chữa để bảo vệ quyền lợi cho mình. Người bào chữa sẽ có vị trí đối lập với cơ quan điều tra và cố gắng chứng minh, bảo vệ quyền lợi cho thân chủ của mình không bị kết tội oan sai.
Cụ thể, theo quy định tại Điểm h Khoản 2, Điều 60 và Điểm g Khoản 2 Điều 61 thì bị can, bị cáo có quyền “tự bào chữa, nhờ người bào chữa”. Người bào chữa được tham gia tố tụng từ thời điểm khởi tố bị can, hoặc nếu thân chủ bị bắt, tạm giữ thì được tham gia tố tụng từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở của cơ quan điều tra.
3. Đối với người bị buộc tội là người chưa thành niên, người mất khả năng nhận thức và làm chủ hành vi
Nếu như những chủ thể bình thường bị điều tra, xét xử về một hành vi phạm tội, họ có quyền được bào chữa nghĩa là họ có thể nhờ người bào chữa hoặc không tùy ý. Tuy nhiên, có những trường hợp mà pháp luật quy định bắt buộc phải có người bào chữa vì khả năng tự bảo vệ quyền của họ không có hoặc rất thấp hoặc bị điều tra về tội rất nặng. Khi đó, để đảm bảo quá trình tố tụng diễn ra khách quan, đúng pháp luật, tôn trọng quyền của người bị buộc tội thì nếu người bị buộc tội hoặc người thân của họ không mời người bào chữa thì cơ quan tiến hành tố tụng phải chỉ định người bào chữa cho họ. Những trường hợp này bao gồm:
– Bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật hình sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân, tử hình;
– Người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa; người có nhược điểm về tâm thần hoặc là người dưới 18 tuổi.
∗ Kết luận, người bị buộc tội được đảm bảo quyền bào chữa ngay từ khi tham gia vào các hoạt động tố tụng kể cả khi chưa có quyết định khởi tố bị can hoặc quyết định đưa vụ án ra xét xử. Pháp luật còn quy định một vài trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa để đảm bảo người bị buộc tội được thực hiện quyền lợi của mình cũng như đảm bảo vụ án hình sự diễn ra đúng pháp luật, công bằng, khách quan tránh oan sai.
>>>Xem thêm: Tìm hiểu về bị can và bị cáo trong vụ án hình sự
Luật sư – Nguyễn Văn Tuấn – Giám Đốc Công ty Luật TGS
Ông là một luật sư giỏi có nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực đất đai. Luật sư đã tham gia tranh tụng nhiều vụ án tranh chấp đất đai, vụ án hình sự, kinh tế, thương mại,.. trên toàn quốc.
Luật sư Nguyễn Đức Hùng – Phó Giám Đốc Công ty Luật TGS
Thạc sĩ, Luật sư Nguyễn Đức Hùng là một luật sư giỏi, đã từng công tác tại Công ty Luật TNHH NHB và nhiều công ty luật có thương hiệu khác, với hơn 10 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực Đất đai, hình sự, dân sự..
Luật sư Nguyễn Đức Hùng – Luật sư Công ty Luật TGS
Luật sư Đức Hùng từng công tác tại nhiều tổ chức hành nghề luật sư uy tín, có nhiều năm kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực tranh tụng hình sự, đất đai, tranh chấp dân sự, hôn nhân gia đình.
Luật sư Hà Huy Sơn – Luật sư Công ty Luật TGS
Là một luật sư giỏi trong lĩnh vực hình sự. Với hơn 10 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực Hình Sự, luật sư Hà Huy Sơn đã gây dựng được cho mình thương hiệu riêng và sự uy tín vững chắc đối với khách hàng.